1. Sức Mạnh Thực Sự Nằm Ở Sự Khiêm Tốn
Sự khiêm tốn thường bị hiểu lầm là dấu hiệu của sự yếu đuối hoặc thiếu tự tin. Tuy nhiên, sự khiêm tốn thực sự đòi hỏi sức mạnh nội tâm đáng kể. Cần có can đảm để thừa nhận sai sót của mình, tìm kiếm phản hồi và thừa nhận sai lầm. Bằng cách đó, mỗi cá nhân có thể phát triển và cải thiện liên tục. Quan điểm này thách thức quan niệm thông thường về sức mạnh, chuyển trọng tâm từ thể hiện sức mạnh bên ngoài sang khả năng phục hồi bên trong và tự hoàn thiện bản thân.[1]
2. Tầm Quan Trọng Của Việc Tự Nhận Thức
Tự nhận thức là nền tảng của sự khiêm tốn.
Tự nhận thức là yếu tố đầu tiên của trí tuệ cảm xúc.
Nó liên quan đến sự hiểu biết trung thực và thấu đáo về tính cách, cảm xúc và động cơ của một người. Khả năng tự nhận thức cho phép các cá nhân nhận ra điểm mạnh và điểm yếu của mình mà không tự lừa dối hay phủ nhận. Sự rõ ràng này giúp thiết lập các mục tiêu thực tế, đưa ra quyết định tốt hơn và tham gia vào quá trình tự suy ngẫm có ý nghĩa hơn. Nó cũng khuyến khích sự phát triển cá nhân liên tục và hiểu biết sâu sắc hơn về cách hành động của một người tác động đến người khác.
2.1. Có hai kiểu tự nhận thức:
Qua các nghiên cứu về lĩnh vực này, người ta thấy có hai loại tự nhận thức chung. Đầu tiên là sự tự nhận thức bên trong, thể hiện mức độ chúng ta nhìn nhận rõ ràng các giá trị, niềm đam mê, khát vọng của bản thân, sự phù hợp với môi trường, phản ứng (bao gồm suy nghĩ, cảm xúc, hành vi, điểm mạnh và điểm yếu) và tác động đến người khác. Khả năng tự nhận thức bên trong có liên quan đến sự hài lòng cao hơn trong công việc và mối quan hệ, khả năng kiểm soát cá nhân và xã hội cũng như hạnh phúc; nó có liên quan tiêu cực đến lo lắng, căng thẳng và trầm cảm.
Loại thứ hai, sự tự nhận thức bên ngoài, có nghĩa là hiểu cách người khác nhìn nhận chúng ta, dựa trên những yếu tố tương tự được liệt kê ở trên. Nghiên cứu cho thấy những người biết người khác nhìn nhận họ như thế nào thì có kỹ năng thể hiện sự đồng cảm và đón nhận quan điểm của người khác tốt hơn. Đối với những nhà lãnh đạo coi mình bình đẳng như nhân viên, nhân viên của họ có xu hướng có mối quan hệ tốt hơn với họ, cảm thấy hài lòng hơn với họ và nhìn chung họ làm việc hiệu quả hơn.
Thật dễ dàng để cho rằng việc đạt được mức độ nhận thức cao ở một loại nhận thức nào đó sẽ đồng nghĩa với việc đạt được mức độ nhận thức cao ở loại nhận thức khác. Nhưng các nghiên cứu hầu như không tìm thấy mối quan hệ nào giữa chúng.
2.2. Kinh nghiệm và quyền lực cản trở sự tự nhận thức
Không giống như quan điểm phổ biến, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng con người không phải lúc nào cũng học hỏi từ kinh nghiệm, chuyên môn không giúp con người loại bỏ thông tin sai, và tự xem mình là có nhiều kinh nghiệm có thể làm cho chúng ta không chịu nghiên cứu kỹ lưỡng, tìm kiếm các bằng chứng phủ định và đặt câu hỏi về các giả định của chúng ta.[8]
Và giống như kinh nghiệm có thể dẫn đến cảm giác tự tin sai lầm về hiệu suất, nó cũng có thể làm cho chúng ta quá tự tin về mức độ tự hiểu của bản thân. Ví dụ, một nghiên cứu đã chỉ ra rằng các quản lý có nhiều kinh nghiệm thường ít chính xác hơn trong việc đánh giá hiệu quả lãnh đạo của mình so với những quản lý ít kinh nghiệm hơn.[9]
Nhưng điều này không nhất thiết luôn phải như vậy. Một phân tích đã chỉ ra rằng những nhà lãnh đạo thành công nhất, được đánh giá qua các phản hồi 360 độ về hiệu quả lãnh đạo, đã phản kháng xu hướng này bằng cách tìm kiếm thường xuyên phản hồi phê bình (từ cấp trên, đồng nghiệp, nhân viên, ban giám đốc và những người khác).[13] Họ trở nên tự nhận thức hơn trong quá trình này và được người khác nhận thấy là hiệu quả hơn.[14]
Tương tự, những người cải thiện được sự nhận thức bên ngoài của họ đã làm điều đó bằng cách tìm kiếm phản hồi từ những người yêu mến và chỉ trích – tức là những người có lợi ích tốt nhất cho họ và sẵn lòng nói cho họ nghe sự thật. Để đảm bảo rằng họ không phản ứng quá mức hoặc hiệu chỉnh quá mức dựa trên ý kiến của một người, họ cũng tự kiểm tra lại phản hồi khó khăn hoặc bất ngờ với những người khác.
2.3. Tự phân tích không phải lúc nào cũng cải thiện sự nhận thức về bản thân
Nhiều người cũng cho rằng tự phân tích – khám phá nguyên nhân của suy nghĩ, cảm xúc và hành vi của chúng ta – sẽ cải thiện sự nhận thức về bản thân. Họ cho rằng cách tốt nhất để hiểu về chính mình là tự suy ngẫm về lý do tại sao chúng ta lại như vậy, phải không?
Tuy nhiên, một trong những phát hiện đáng ngạc nhiên nhất từ nghiên cứu của nhóm tác giả Tasha Eurich là những người tự phân tích lại ít nhận thức về bản thân hơn và báo cáo cảm thấy không hài lòng về công việc và sự hạnh phúc. Các nghiên cứu khác cũng cho thấy các hình mẫu tương tự.[15]
Vấn đề của tự phân tích không phải là nó hoàn toàn không có tác dụng – mà là hầu hết mọi người đang thực hiện nó một cách không đúng. Để hiểu điều này, hãy xem xét có lẽ câu hỏi tự phân tích phổ biến nhất: “Tại sao?” Chúng ta hỏi điều này khi cố gắng hiểu về cảm xúc của chúng ta (Tại sao tôi thích nhân viên A nhiều hơn nhân viên B?), hoặc hành vi của chúng ta (Tại sao tôi đã nổi giận với nhân viên đó?), hoặc thái độ của chúng ta (Tại sao tôi phản đối chương trình này?).
Như đã phát hiện qua các nghiên cứu, câu hỏi “tại sao” lại là một câu hỏi tự nhận thức không hiệu quả đáng ngạc nhiên. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng chúng ta đơn giản là không có khả năng tiếp cận được nhiều suy nghĩ, cảm xúc và động cơ tiềm ẩn mà chúng ta đang tìm kiếm.[16] Và bởi vì nhiều thứ bị giam giữ ngoài ý thức của chúng ta, chúng ta thường sáng tạo ra những câu trả lời mà ta cảm thấy đúng nhưng thường là sai.[2] Ví dụ, sau một lần phản ứng bất thường với một nhân viên, một người quản lý mới có thể nhảy đến kết luận rằng điều đó xảy ra vì cô ấy không phù hợp với công việc quản lý, trong khi nguyên nhân thực sự là do đường huyết thấp (đói bụng).
Do đó, vấn đề khi đặt câu hỏi tại sao không phải là chúng ta sai như thế nào mà là chúng ta tự tin rằng mình đúng đến mức nào.[3] Tâm trí con người hiếm khi hoạt động một cách hợp lý và những phán đoán của chúng ta hiếm khi không có thành kiến. Chúng ta có xu hướng vồ lấy bất kỳ hiểu biết sâu sắc nào mà chúng ta tìm thấy mà không đặt câu hỏi về tính xác thực hoặc giá trị của chúng, chúng ta bỏ qua những bằng chứng mâu thuẫn và buộc suy nghĩ của mình phải tuân theo những giải thích ban đầu.
Một hậu quả tiêu cực khác của việc hỏi “tại sao” – đặc biệt khi cố gắng giải thích một kết quả không mong muốn – là nó khuyến khích những suy nghĩ tiêu cực không đem lại kết quả.[4] Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng những người có xu hướng tự phân tích sâu sắc cũng có khả năng bị mắc kẹt trong các mô hình suy nghĩ lặp lại. Ví dụ, nếu một nhân viên sau khi nhận được một đánh giá hiệu suất kém hỏi là “Tại sao tôi lại được đánh giá thấp như vậy?”, họ có thể sẽ dựa vào một giải thích tập trung vào nỗi sợ hãi, điểm yếu hoặc bất an của họ, thay vì một đánh giá hợp lý về các điểm mạnh và điểm yếu của mình. (Vì lý do này, những người tự phân tích bản thân thường bị trầm cảm, lo âu hơn, trải nghiệm sự khổ sở và cảm giác hạnh phúc kém hơn.[5])
Vậy nếu “tại sao” không phải là câu hỏi tự phân tích đúng đắn, liệu có câu hỏi nào tốt hơn không? Các nhà nghiên cứu đã xem lại lại hàng trăm trang tường thuật các cuộc phỏng vấn với những người có sự nhận thức về bản thân cao để xem họ có cách tiếp cận việc tự phân tích một cách khác biệt không. Quả thật là có một hình mẫu rõ ràng: Trong khi từ “tại sao/why” xuất hiện ít hơn 150 lần, từ “gì/what” lại xuất hiện hơn 1.000 lần.
Do đó, để tăng cường sự nhận thức hiệu quả về bản thân và giảm thiểu sự nghi ngờ không đem lại kết quả, chúng ta nên hỏi “gì/what”, không phải “tại sao/why”.[6] Các câu hỏi “gì/what” giúp chúng ta duy trì tính khách quan, tập trung vào tương lai và cảm thấy có sức mạnh để hành động dựa trên những thông tin mới mà chúng ta thu được.
Ví dụ, hãy xem xét Jose, một người đã có kinh nghiệm trong ngành giải trí, Jose là người đang ghét công việc của mình. Trong khi nhiều người có thể bị mắc kẹt suy nghĩ “Tại sao tôi cảm thấy tồi tệ như vậy?”, anh ta lại hỏi: “Các tình huống nào khiến tôi cảm thấy tồi tệ, và chúng có điểm chung gì?” Anh nhận ra rằng mình sẽ không bao giờ hạnh phúc trong công việc đó, và điều đó đã cho anh dũng khí để theo đuổi một sự nghiệp mới và mang lại nhiều hơn nữa trong việc quản lý tài sản.
Tương tự, Robin, một nhà quản lý dịch vụ khách hàng mới trong công việc của mình, cần phải hiểu một phản hồi tiêu cực mà cô nhận được từ một nhân viên. Thay vì hỏi “Tại sao bạn nói như vậy về tôi?”, Robin hỏi: “Những bước tiếp theo tôi cần thực hiện để làm việc tốt hơn là gì?” Điều này giúp họ chuyển sang giải pháp thay vì tập trung vào các mô hình không hiệu quả trong quá khứ.
Trường hợp cuối cùng là Paul, anh biết rằng doanh nghiệp mà anh ta vừa mua lại không còn sinh lời được nữa. Ban đầu, điều duy nhất anh có thể hỏi bản thân là “Tại sao tôi không thể cải thiện được tình hình?” Nhưng anh nhanh chóng nhận ra rằng anh không có thời gian hay năng lượng để tự đánh giá mình – anh phải tìm cách giải quyết vấn đề tiếp theo. Anh bắt đầu hỏi: “Tôi cần phải làm gì để phát triển tiếp với mục tiêu giảm thiểu tác động đến khách hàng và nhân viên của chúng tôi?” Anh đã lập ra một kế hoạch và đã có thể tìm ra những cách sáng tạo để mang lại nhiều lợi ích cho người khác nhất có thể trong khi giảm dần hoạt động kinh doanh. Khi mọi việc kết thúc, anh thách thức bản thân mình phải diễn đạt những gì anh học được từ kinh nghiệm đó – việc này không chỉ giúp anh tránh các sai lầm tương tự trong tương lai mà còn giúp người khác học hỏi từ chúng.[7]
Những phát hiện định tính này đã được củng cố bởi nghiên cứu định lượng của tác giả khác. Trong một nghiên cứu, các nhà tâm lý học J. Gregory Hixon và William Swann đã đưa ra phản hồi tiêu cực cho một nhóm sinh viên đại học trong bài kiểm tra về “khả năng hòa đồng, khả năng dễ mến và sự thú vị” của họ.[8] Một số được dành thời gian để suy nghĩ về lý do tại sao/why họ lại là loại người như vậy trong khi những người khác được yêu cầu nghĩ xem họ là người như thế nào/what. Khi các nhà nghiên cứu yêu cầu họ đánh giá tính chính xác của phản hồi, những sinh viên trong nhóm hỏi “tại sao” dành năng lượng để hợp lý hóa và phủ nhận những gì họ đã học được, còn những học sinh trong nhóm hỏi “như thế nào” lại cởi mở hơn với thông tin mới này và cách họ có thể học hỏi từ nó. Kết luận khá táo bạo của Hixon và Swann là “nghĩ về lý do tại sao một người lại như vậy có thể không tốt hơn là không nghĩ gì về bản thân họ cả”.
Tất cả những điều này đưa chúng ta đến kết luận: Những nhà lãnh đạo tập trung vào việc xây dựng sự tự nhận thức cả bên trong lẫn bên ngoài, những người tìm kiếm những phản hồi trung thực từ những nhà phê bình yêu quý và những người hỏi điều gì thay vì tại sao có thể học cách nhìn nhận bản thân rõ ràng hơn – và gặt hái được nhiều thành công từ những điều mà sự hiểu biết về bản thân tăng lên mang lại. Và cho dù chúng ta có tiến bộ đến đâu thì vẫn luôn có nhiều điều để học hỏi. Đó là một trong những điều khiến hành trình tự nhận thức trở nên thú vị.
3. Xây Dựng Mối Quan Hệ Bền Chặt
Khiêm tốn là yếu tố quan trọng để xây dựng và duy trì các mối quan hệ bền chặt, lành mạnh. Nó thúc đẩy sự đồng cảm, vì những cá nhân khiêm tốn có nhiều khả năng lắng nghe tích cực và hiểu quan điểm của người khác. Điều này tạo ra nền tảng của sự tôn trọng và tin cậy lẫn nhau. Sự khiêm tốn cũng ngăn cản sự kiêu ngạo và ích kỷ, thúc đẩy động lực hợp tác và hỗ trợ nhiều hơn trong các mối quan hệ cá nhân và nghề nghiệp. Sự khiêm tốn sẽ dẫn đến những kết nối sâu sắc hơn, chân thực hơn, khi mọi người cảm thấy được trân trọng và thấu hiểu.
4. Lãnh Đạo Hiệu Quả
Khả năng lãnh đạo khiêm tốn được đặc trưng bởi cách tiếp cận lãnh đạo phục vụ, trong đó người lãnh đạo ưu tiên các nhu cầu và sự phát triển của nhóm của họ. Những nhà lãnh đạo khiêm tốn sẽ dễ tiếp cận hơn, sẵn sàng thừa nhận sai lầm của mình và cởi mở với những ý tưởng mới. Điều này thúc đẩy một môi trường làm việc hợp tác và hòa nhập. Nhân viên có nhiều khả năng cảm thấy được tôn trọng và có động lực hơn, dẫn đến mức độ gắn kết và năng suất cao hơn. Sự khiêm tốn trong lãnh đạo cũng là tấm gương tích cực, khuyến khích hành vi tương tự trong toàn tổ chức.
5. Kiên Cường Trong Nghịch Cảnh
Sự khiêm tốn trang bị cho mỗi cá nhân khả năng phục hồi cần thiết để vượt qua những thử thách trong cuộc sống. Bằng cách chấp nhận rằng thất bại là một phần của quá trình học hỏi, những cá nhân khiêm tốn có thể đứng dậy sau thất bại một cách hiệu quả hơn. Họ ít có khả năng nản lòng trước những trở ngại, thay vào đó họ coi chúng là cơ hội để phát triển. Sự khiêm tốn khuyến khích tư duy phát triển, trong đó những khó khăn được coi là tạm thời và có thể vượt qua bằng nỗ lực và sự kiên trì.
6. Nuôi Dưỡng Lòng Biết Ơn
Một quan điểm khiêm tốn tự nhiên sẽ dẫn đến cảm giác biết ơn. Nhận thức được rằng thành tựu của một người thường là kết quả của nỗ lực tập thể, thay vì chỉ nỗ lực cá nhân, sẽ nuôi dưỡng sự đánh giá cao sự đóng góp của người khác. Lòng biết ơn nâng cao hạnh phúc và sự hài lòng khi các cá nhân nhận thức rõ hơn và biết ơn những khía cạnh tích cực trong cuộc sống của họ. Thái độ biết ơn này có thể cải thiện sức khỏe tinh thần và nuôi dưỡng cái nhìn tích cực hơn về cuộc sống.
7. Khuyến Khích Đổi Mới Và Sáng Tạo
Sự khiêm tốn mở ra cánh cửa cho sự đổi mới và sáng tạo bằng cách thúc đẩy một môi trường nơi những ý tưởng và quan điểm đa dạng được đánh giá cao. Những người khiêm tốn thừa nhận rằng họ không có tất cả các câu trả lời và sẵn sàng tìm kiếm ý kiến đóng góp từ người khác. Sự cởi mở này khuyến khích việc giải quyết vấn đề một cách sáng tạo và khám phá các phương pháp tiếp cận mới. Sự khiêm tốn cho phép trí tò mò và tính linh hoạt cao hơn, những đặc điểm cần thiết cho sự đổi mới trong bất kỳ lĩnh vực nào.
8. Sống Chân Thành
Sống một cuộc sống khiêm tốn có nghĩa là chấp nhận sự chân thành và chính trực. Những cá nhân khiêm tốn luôn sống thật với bản thân và các giá trị của mình, tránh sự giả tạo và đạo đức giả. Tính chân thành này tạo dựng niềm tin và sự tôn trọng, cả bên trong lẫn bên ngoài. Cuộc sống đích thực cũng thúc đẩy sự nhất quán và đáng tin cậy, củng cố các mối quan hệ cá nhân và nghề nghiệp.
Tham khảo:
- “The Power of a Humble Life”, Richard E. Simmons
- Richard E. Nisbett and Timothy DeCamp Wilson, “Telling More Than We Can Know: Verbal Reports on Mental Processes,” Psychological Review 84, no. 3 (May 1977): 231–259.
- Timothy D. Wilson, Dana S. Dunn, Delores Kraft, and Douglas J. Lisle, “Introspection, Attitude Change, and Attitude-Behavior Consistency: The Disruptive Effects of Explaining Why We Feel the Way We Do,” Advances in Experimental Social Psychology 22 (1989): 287–343.
- Ethan Kross, Ozlem Ayduk, and Walter Mischel, “When Asking ‘Why’ Does Not Hurt. Distinguishing Rumination from Reflective Processing of Negative Emotions,” Psychological Science 16, no. 9 (September 2005): 709–715.
- Susan Nolen-Hoeksema, Angela McBride, and Judith Larson, “Rumination and Psychological Distress Among Bereaved Partners,” Journal of Personality and Social Psychology 72, no. 4 (April 1997): 855–862; John B. Nez-lek, “Day-to-Day Relationships Between Self- Awareness, Daily Events, and Anxiety,” Journal of Personality 70, no. 2 (November 2002): 249–276; Grant et al., “The Self-Reflection and Insight Scale.”
- Tasha Eurich, “Increase Your Self-Awareness with One Simple Fix,” TEDxMileHigh video, 17:17, December 19, 2017, https://www.youtube.com/watch?v=tGdsOXZpyWE.
- Paul Brothe, “Eight Lessons I Learned from Buying a Small Business,” LinkedIn, July 13, 2015.
- J. Gregory Hixon and William B. Swann Jr., “When Does Introspection Bear Fruit? Self-Refl ection, Self-Insight, and Interpersonal Choices,” Journal of Personality and Social Psychology 64, no. 1 (January 1993): 3–43.